Notice: Function add_theme_support( 'html5' ) was called incorrectly. You need to pass an array of types. Please see Debugging in WordPress for more information. (This message was added in version 3.6.1.) in /home/truyen-thongorg-13259/public_html/prod/wp-includes/functions.php on line 5831
Featured Archives - Truyền Thông
Tag

Featured

Browsing

Hoa hồi tên tiếng anh là  Illicium verum Hook.f., là một loại thực vật thuộc họ hồi, bát giác (8 cánh). Hoa hồi (hay còn gọi là quả hồi) có hình vương miện, elip hoặc hình nón, vỏ cây màu xám đậm, cành rậm rạp. Lá cây mọc không đều, lá có hình oval.

Cây hồi là loài thực vật được trồng ở khu vực vành đai nhiệt dới Nam Á, ưa thích khí hậu trên núi đông ấm hạ mát, cây phát triển tốt nhất khi được trồng trên đất cát có tính axit, điều kiện thoát nước tốt. Mùa hoa chính vào tháng 3 đến tháng 5, tháng 9, 10 quả chín. Hoa trái mùa ra vào tháng 8 đến tháng 10 đậu quả vào tháng 3, 4 sang năm.  Hoa hồi có màu hồng, hồng đỏ

Hoa hồi khô có nhiều tác dụng trong y học, chế biến món ăn và công nghệ sản xuất tinh dầu

Hoa hồi dùng để làm gì?

Hoa hồi có rất nhiều công dụng và tác dụng trong đời sống hàng ngày cũng như trong ngành công nghiệp chủ yếu được dùng để làm gia vị, làm thuốc. Vỏ, hạt và lá hồi đều chứa tinh dầu thơm, được sử dụng trong sản xuất mỹ phẩm, rượu, bia cụ thể như sau:

  1. Dùng làm gia vị

Cây hồi là một loại gia vị nổi tiếng với mùi thơm và hương vị đặc biệt. Hoa của nó có thể sử dụng trực tiếp trong gia vị hàng ngày để nấu các món ăn như hầm, luộc, muối… hoặc nêm trực tiếp vào món ăn.

Ngoài ra, tinh dầu hoa hồi và dầu nhựa cây hồi thường được dùng trong các ngành công nghiệp thực phẩm để chế biến các sản phẩm thịt, gia vị, nước ngọt, đồ uống, bánh kẹo, bánh ngọt và đồ nướng…

Tinh dầu nhựa cây hồi cũng giống như những tinh dầu thơm thực vật khác, những năm gần đây lượng tiêu thụ mặt hàng này trên thị trường ngày càng tăng lên, và có xu hương  thay thế dần các nguyên liệu gia vị cũ.

Cây Hồi được trồng nhiều ở Lạng Sơn và một số tỉnh của Việt Nam ta

Dùng để làm thuốc

Hoa hồi chín, phơi khô chứa tinh dầu thơm, chất béo, protein, nhựa…chiết xuất nên tinh dầu hoa hồi. Trong đó hạt hồi chiếm 1,7- 2,7% tinh dầu, quả khô và lá khô chiếm 12-13% và 1,6-1,8%  tinh dầu.

Thành phần chính của tinh dầu hoa hồi là Anethole, Anisaldehyd và Anisylacetone, Safrole, Parkene..

 

Hoa hồi có tác dụng chủ yếu là lưu thông khí huyết, điều trị bệnh dạ dày, cảm lạnh, nôn, lạnh bụng đau bụng, chướng bụng, đầy hơi… Nhưng sẽ gây ảnh hưởng đến mắt và viêm loét nếu lạm dụng quá nhiều.

Quả hồi có tác dụng tăng cường chức năng dạ dày, điều hòa nội khí, giảm đau, phòng trị cảm hàn, các bệnh về tiêu hóa và suy nhược thần kinh…Với sự phát triển không ngừng của ngành y dược, chất axit shikimic chiết xuất từ  cây hồi có thể dùng để điều chế thuốc chống ung thư, và sản xuất thuốc chống cúm A hoặc cúm B.

Quả hồi khô  chứa 8- 13% axit shikimic, là nguyên liệu thực vật tự nhiên tốt nhất, ngoài cây hồi độc (cây hồi dại) chưa phát hiện loại cây nào có giá trị sản xuất tiềm năng hơn nó.

Cấm sử dụng cây thuốc này với các bệnh nhân có tiền sử các bệnh về mắt, hội chứng khô hạn, mãn kinh, bệnh lao phổi, hen suyễn phế quản, bệnh gút, tiểu đường, phát hỏa, ăn ít hoặc ăn kiêng.

  1. Là tinh dầu quan trọng trọng sản xuất công nghiệp

Với sự phát triển của xã hội, con người ngày càng chú ý đến việc nghiên cứu ứng dụng các sản phẩm gia công từ quả hồi, để khai thác được hết giá trị to lớn của loài cây này. Từ năm 1980 người ta đã bắt đầu gia công các sản phẩm có thành phần từ hạt hồi, tinh dầu hoa hồi… các sản phẩm này được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp thực phẩm, hương liệu, hóa chất và y dược. Là chất chống côn trùng, chất tạo mùi hương cho các  sản phẩm như thuốc lá,  xà phòng thơm, nước súc miệng, kem đánh răng…

Hoa hồi có thể đươc sử dụng để diệt trừ sâu bọ khi cất trữ lương thực, nó kết hợp với tế tân, tía tô dại… để tạo thành chất  lí tưởng  chống côn trùng có hại đến các loại hạt như thóc lúa, ngô, đậu…hiệu quả diệt trừ lên đến 95%, thời gian sử dụng đến 8 tháng.

Trong công nghiệp, nó còn được dùng trong chất phụ gia để mạ điện không có cy-a-no-gen.

Quả, hạt và lá hồi đều chứa tinh dầu thơm, được dùng để sản xuất mỹ phẩm, rượu khai vị, bia và ngành công nghiệp thực phẩm. Hiện nay Trung quốc là nước sản xuất dầu hồi lớn nhất trên thế giới, cả trong nước và xuất khẩu. Tinh dầu hoa hồi của Trung Quốc chiếm 80% trên thị trường thế giới.

Gỗ cây hồi có màu nâu đỏ nhạt hoặc nâu đỏ đậm, đường vân thẳng, chất gỗ nhẹ mềm có mùi thơm thích hợp để làm đồ gỗ, đồ gia dụng…

Tinh dầu hoa hồi là chất lỏng không màu hoặc có màu vàng nhạt, có mùi thơm đặc trưng của hoa hồi, vị ngọt, kết tinh ở nhiệt độ 15 ℃, hòa tan trong ethanol và ether. Thành phần chính là hạt hồi , chiếm 80-90% chứa acetaldehyd và các chất khác. Được sử dụng như chất tạo mùi thơm cho kem đánh răng, thuốc, đồ uống, thực phẩm…

Cây hồi có các loài họ hàng với nó, trong đó loài hồi dại có độc tính, nếu trúng độc có thể dẫn đến tử vong. Đặc điểm nhận dạng  loài hồi này là hoa thường không có 8 cạnh, hình dáng khác với hồi được trồng. Vỏ ngoài sần sùi, phần đầu của mỗi cạnh nhọn, cong, không có vị ngọt như hồi trồng, hoặc có vị nhạt, tê, hơi chua, đắng.

Các loại cây và hoa hồi

Cây hồi thật (hoa hồi) thường có 8 cạnh tạo thành 1 chùm quả, màu nâu nhạt hoặc nâu đỏ. Vỏ dày,  đầu cạnh cùn, có mùi thơm đậm đà, vị cay và ngọt.

Cây quế: thường có 10-13 cạnh tạo thành 1 quả, màu đỏ hoặc nâu đỏ, vỏ mỏng, cạnh dài và đầu cạnh hơi ngọn, mùi thơm nhẹ nhàng như mùi cây thông, vị nhạt, tê lưỡi.

Cây hồi đỏ: thường có 7-8 cạnh tạo thành 1 quả, màu nâu xám. Đầu cạnh nhọn và cong lên trên, mùi nhẹ nhưng đặc trưng, vị chua hơi ngọt

Cây đại hồi: thường có 10-14 cạnh tạo thành 1 quả,  màu nâu nhạt hoặc nâu xám. Vỏ mỏng, cạnh dài và nhọn, hơi cong, mùi nhẹ nhưng đặc trưng, vị nhạt và tê lưỡi.

Cây hồi dại: có 10-14 cạnh tạo thành 1 quả,  dài 1,6-2mm rộng 0,4-0,6mm, đầu cạnh dài và hơi nhọn, hơi cong. Vỏ mỏng, cuống dài 1,5-2mm, vị nhạt, ngậm lâu có vị tê lưỡi.

Cây tiểu hồi: có 10-13 cạnh tạo thành 1 quả, quả có hình chiếc thuyền nhỏ, dài 1,8-2,3mm, rộng 1,5-1,8mm, đầu nhọn, không cong, vỏ dày có vị thối, đắng, cay, tê lưỡi.

Bởi có nhiều loài có hình dáng quả tương tự hồi nên khi tách quả ra, trộn lẫn với nhau, rất khó để phân biệt hoa hồi thật giả.

Cách trồng chăm sóc và chống sâu bệnh cho cây hồi

Cây hồi là loài cây đem đến cho người dân giá trị kinh tế cao, hoa hồi có nhiều công dụng như làm gia vị, làm thuốc, chế phẩm của nó được sử dụng rộng rãi cho các ngành công nghiệp. Những năm gần đây, nhu cầu mua bán các sản phẩm về hồi tăng cao. Ở Việt Nam, cây hồi được trồng nhiều ở cùng Đông Bắc, Lạng Sơn là tỉnh có diện tích hồi lớn nhất cả nước với hơn 33 nghìn ha và đang trong thời kỳ thu hoạch. Để cây hồi phát triển và cho giá trị kinh tế, việc trồng và chăm sóc cây là công việc vô cùng quan trọng. Bài viết sau tổng hợp các bước để trồng và chăm sóc cây hồi từ khi gieo hạt đến khi cây trưởng thành và cho thu hoạch, cũng như cách để kéo dài tuổi thọ cho cây.

  1. Chọn vườn ươm

Để có một cây hồi giống tốt, vườn ươm là điều kiện tiên quyết, đặc biệt là đất trồng. Khi chọn đất vườn ươm, chúng ta phải xem xét đầy đủ các yếu tố toàn diện về mọi mặt.  Ngoài việc xem xét đến môi trường sinh thái bên ngoài phải phù hợp với sự phát triển của cây giống, vườn ươm cũng phải là nơi có điều kiện giao thông và thông tin thuận lợi.

Nếu vườn ươm để trồng cây gây rừng, thì nên chọn vị trí gần khu vực trồng rừng. Điều kiện cơ bản nhất là nguồn nước, môi trường ẩm ướt, tâng đất dày, xốp, nhiều mùn, thoát nước tốt, ở sườn núi, chân núi, đồi có độ dốc dưới 20 độ. Không nên chọn ở vùng đất khô hạn, bằng phẳng, hoặc gần những vườn ươm trồng hồi có sâu bệnh.

Đất ươm cần có tính axit hoặc hơi chưa, độ pH tốt nhất khoảng 5- 5,5, không vượt quá 6.0, không thâp hơn 4,5.

Vườn ươm không được để ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp nên phải làm mái che mát. Tốt nhất nên chọn vườn ươm ở những khu rừng thưa, có không gian trống.

  1. Làm vườn ươm

  • Làm đất

Sau khi chọn xong vị trí làm vườn ươm, chúng ta sẽ tiến hành làm đất vào khoảng tháng 10- 11. Đầu tiên làm sạch cỏ trên nền đất, san nền bằng phẳng. Phơi cỏ khô rồi đốt, nếu có những cây to có thể giữ lại làm bóng mát.

Xới đất sâu khoảng 20cm, vỡ đất và loại bỏ sỏi hoặc rễ cây, vun luống ngay ngắn. Chiều rộng của luống khoảng 1- 1,2m, cao 20cm, chiều dài tùy theo thực tế của vườn ươm, để tiện cho việc chăm sóc. Giữa các luống để lỗi đi rộng khoảng 40cm, sau khi làm xong luống, vỡ đất một lần nữa cho đất nhỏ vụn, tiện cho việc gieo hạt. Đồng thời phải đào lối thoát nước ở 4 góc luống và giữa các luống, tránh tình trạng đọng nước trên luống ảnh hưởng đến sự phát triển của hạt giống.

  • Làm mái che

Vào khoảng thời gian trước tháng 10, nếu để ánh nắng chiếu trực tiếp lên cây hồi non, nó sẽ bị cháy nắng và chết. Vì vậy, sau khi làm đất xong chúng ta phải làm mái che mát cho cây hồi. Vật liệu để làm mái che chủ yếu là cột, dây và vật dụng lợp mái che.

Theo phương pháp truyền thống, người ta sử dụng cột hoặc cọc gỗ có chiều dài 5-8cm, dùng cọc tre hoặc cành tre dài để liên kết, lợp mái bằng lá cây, cỏ…

Nếu muốn làm giàn mái che lâu dài có thể sử dụng cột bê tông, thanh sắt dài để thay thế cho cọc tre, dùng lưới nhựa đen che nắng với mức độ ánh nắng truyền qua chỉ từ 20-10%

Mái che phải có độ ổn định, lượng ánh sáng chiếu qua đồng đều khoảng 10%.  Không nên làm mái che quá cao hoặc quá thấp, cao quá vừa khó làm vừa dễ bị gió thổi, thấp quá thì khó chăm bón cho cây hồi con,

  • Làm hệ thống tưới nước

Căn cứ theo quy mô diện tích vườn ươm để làm hệ thống tưới, cây hồi ươm và cây triết cành cần lượng nước khá lớn nên phải làm hệ thống hoàn thiện. Cây giống ghép cần ít nước hơn nên có thể làm hệ thống tưới nước quy mô nhỏ, tiết kiệm, bảo đảm cung cấp lượng nước đủ cho cây giống phát triển là được

Trước khi gieo hạt phải làm xong hệ thống tưới nước, bao gồm hồ chứa, đường ống dẫn nước, vòi phun…có thể dùng ống thép hoặc ống nhựa đều được, được lắp đặt phía dưới mái che hoặc chôn ngầm dưới đất. Nếu vườn ươm   ươm giống lâu dài nên làm hệ thống tưới tự động, số lượng vòi phun và khoảng cách các vòi với nhau tùy theo tình hình diện tích thực tế.

  1. Chăm sóc cây hồi giống

Khi chăm sóc cây hồi giống chủ yếu chú ý đến nước, phân bón, vệ sinh, sâu bệnh hại…việc chăm sóc tốt hay không tốt ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sự phát triển của cây giống,

  • Nước

Cây con từ khi gieo hạt xuống đất đến khi lớn thành cây giống cần rất nhiều nước, đặc biệt là cây túi giống. Nếu thiếu nước hạt giống hồi sẽ không nảy mầm dẫn đến chết. Vì vậy phải đảm bảo tưới đủ nước cho hạt giống phát triển thành cây.

Một số thời kỳ chúng ta phải nắm được để chú ý tưới nước đầy đủ cho  hạt giống hồi.

Thứ nhất, khi gieo hạt xuống đất, thời gian này thường ít mưa, khô hạn, thiếu nước nên cần tưới nước thường xuyên, để đất luôn ẩm ướt hạt mới nảy mầm được.

Thứ hai, khi hạt nảy mầm, bắt đầu ra lá mầm. Thời gian này vào tầm tháng 4-5, thời tiết khá khô nóng, cây mầm thiếu nước sẽ rất dễ chết.

Thứ 3, sau khi mở giàn mái che, thời gian này vào mùa đông xuân, đa phần nhiều nơi khí hậu khô ráo, cây hồi non dễ bị chết khô, đặc biệt cây túi giống phải tưới thật nhiều nước. Đồng thời, vào mùa mưa phải chú ý thoát nước, tránh để cây giống bị ngập nước chết.

Cây túi giống cần nhiều nước, chăm sóc kỹ hơn so với cây gieo hạt. Cây gieo hạt truyền thống khi gieo hạt xuống đất và khi nảy mầm mới cần tưới nước 1-2 lần, sau đó chỉ cần trời mưa là đủ nước, khá dễ chăm. Nhưng khi ươm cây túi giống bắt buộc phải chọn nơi có nguồn nước dồi dào, mới có thể đảm bảo ươm giống thành công.

  • Phân bón

Bón phân vừa để cây non phát triển khỏe mạnh, vừa để cải thiện độ phì nhiêu cho đất. Cây giống được bón phân phát triển rất nhanh, sau 1 năm cây hồi giống có thể cao tới 50-60mm, nếu không bón phân, cây chỉ cao khoảng 20-30 cm.

Trước khi gieo hạt, phải bón phân lót, đối với cây túi giống cần làm đất, bón phân đầy đủ chất dinh dưỡng. Điều này là rất quan trọng, lưu ý chỉ bón lượng vừa đủ, nếu bón quá nhiều, cây lớn nhanh nhưng thân và lá rất mềm, sau khi trồng tỉ lệ sống thấp, vận chuyển khó khăn. Nếu đất đã tốt sẵn thì không nên bón nhiều phân.

Loại phân phù hợp nhất là phân bón NPK, hoặc có thể dùng các loại phân bón lá.

  • Làm cỏ

Hoa hồi nở chính vụ vào mùa xuân, lúc này các loài cỏ dại cũng bắt đầu nảy mầm và phát triển. Đặc biệt vào mùa hè, khí hậu nóng ẩm cỏ dại mọc lên rất nhiều cũng là điều kiện lý tưởng cho sâu bệnh sinh sôi. Nếu không làm sạch cỏ sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của cây hồi giống.

Làm cỏ và don dẹp lá rụng là công việc hàng ngày phải làm, thời kỳ quan trọng nhất là từ khi cây giống nảy mầm chui lên mặt đất, đến khi mọc 2 lá mầm. Nếu bị cỏ dại che lấp, cây mầm sẽ rất dễ bị sâu bệnh.

  • Luyện giống

Là quá trình gỡ bỏ mái che, cho cây giống thích ứng với môi trường tự nhiên. Cây hồi giống vốn sinh trưởng trong môi trường bóng râm, rất mềm và yếu, không chịu được ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp. Nếu không trải qua quá trình tôi luyện làm quen, khi ra ngoài sẽ không thể sống được.

Khi cây giống cao khoảng 30cm hoặc đến tầm tháng 10 là có thể gỡ mái che, cho cây chuẩn bị xuất vườn. Thời gian luyện giống ít nhất là 30 ngày. Chú ý nếu vào mùa đông, thì chiều tối nên đạy mái che cho cây để giữ ấm, tránh sương lạnh.

  • Xuất vườn

Cây hồi giống được nuôi dưỡng đến một thời kỳ nhất định có thể xuất vườn, thời gian xuất vườn dựa vào tình trạng sinh trưởng của cây hoặc yêu cầu của khách hàng. Tiêu chuẩn xuất vườn thường là cây cao 30-45cm, đường kính 0,4- 0,5cm trong năm đầu và  cao 45-60cm, đường kính 0,8cm trong năm thứ 2.

Nếu không đạt được tiêu chuẩn thì có thể nuôi tiếp hoặc loại bỏ.

  1. Chăm sóc cây hồi trưởng thành

  • Thời kỳ sinh trưởng:  Là thời kỳ cây trồng bắt đầu sinh trưởng đến khi cứng cáp, khoảng thời gian này từ năm thứ nhất đến năm thứ 1. Cây hồi phát triển khỏe mạnh nhanh hay chậm, chất lượng và sản lượng của cây sau này  phụ thuộc vào cách chăm sóc ở thời gian này.
  • Làm đất: trước khi trồng cây giống, phải làm đất tốt, cung cấp dinh dưỡng cho đất, đến năm thứ 2 có thể trồng xen canh một số loài cây như đậu, ngôi, dưa… có lợi cho sự sinh trưởng của cây hồi.
  • Bón phân: cây hồi không cần bón phân thường xuyên, chỉ cần tưới đủ nước khi trồng cây, nguồn nước ổn định là cây có thể sống rất nhanh. Sau đó 1-2 năm, mỗi năm bón phân 1 lần. Trước khi bón nên làm đất để đất hấp thu chất dinh dưỡng tốt hơn. Đến năm thứ 3, bón phân 2 lần vào mùa xuân và mùa thu hàng năm.
  • Làm cỏ và tỉa cành: mỗi năm làm cỏ 1 lần. Khi cây hồi cao khoảng 1m phải tỉa đi phần ngọn cây, đợi ngọn mới nảy ra khoảng 30cm thì giữ lại 2-3 cành khỏe mạnh, còn lại tỉa đi. Thời gian tỉa cành nên tiến hành trước mùa xuân, khi cây chuẩn bị đâm chồi nảy lộc.
  • Chăm sóc thời kỳ ra quả

Từ khi cây hồi bước vào thời gian ra quả đến khi cây già, thường từ năm thứ 10 đến năm thứ 50, thậm chí đến 100 năm.

Cây hồi thường ra hoa vào tháng 8 năm đầu tiên, và quả chín vào tháng 8 năm sau, cây lâu năm luôn có cả hoa và quả. Việc chăm sóc cây vào thời ký này sẽ quyết định đến sản lượng và tuổi thọ của cây. Chăm sóc tốt cây có thể có tuổi thọ lên đến 100 năm, nếu không chỉ được 20-30 năm mà thôi.

  • Làm đất và bón phân: khi cây hồi đã ra hoa kết quả, sẽ cần lượng chất dinh dưỡng nhiều hơn, nếu đất khô cằn, không bón đủ lượng phân, cây sẽ không khỏe mạnh để nuôi hoa và quả. Mỗi năm nên làm đất và dọn cỏ dại 1 lần, bón phân 2 lần
  • Tỉa cành: việc tỉa cành để khống chế chiều cao của cây, để các cành bên phát triển thành tán rộng, cành mới ra thay thế cành già.

Cắt tỉa cành để lại các tán ra theo mỗi độ cao nhất định của cây, mỗi tán giữ lại 3-4 cành khỏe mạnh làm cành chính, cắt bớt những cành nhỏ. Khi cây cao tầm 3-3,5m nên cắt đi phần ngọn để cây không phát triển chiều cao nữa, mà tập trung nuôi tán. Đồng thời tỉa bỏ những cành già, cành có sâu bệnh để cành mới nảy ra. Nếu cây ra hoa, quả quá nhiều, cây không cấp đủ chất nuôi quả, cũng cần tỉa bớt để đảm bảo chất lượng của quả.

Thời gian cắt tỉa cành nên tiến hành sau mùa thu hoạch quả, trước mùa xuẩn.

  1. Chăm sóc cây hồi khi già

Tuổi thọ kinh tế của cây hồi rất dài, cây trên 100 tuổi vẫn có thể ra hoa kết quả. Việc chăm cây già cũng rất quan trọng, có thể kéo dài tuổi thọ, ngược lại nếu không chăm sóc tốt, cây có thể bị lão hóa sớm, rút ngắn thời gian khai thác giá trị kinh tế

Cách chăm sóc thời kỳ này cũng giống thời kỳ cây trưởng thành, bón phân tỉa cành tùy theo sự phát triển của cây.

Tóm lại, công việc chăm sóc cây hồi rất quan trọng, chúng ta nên căn cứ theo tình hình kinh tế của mỗi gia đình để lựa chọn cách trồng và chăm sóc phù hợp, không nên trồng quá nhiều để rồi không chăm được hết, sẽ không thu được giá trị kinh tế như mong đợi.

Millennial Baby Boomber XYZ Generation là gì? Nhìn vào biến động của các lớp tuổi qua dòng thời gian có thể hữu ích cho những suy gẫm về ngày mai. Đó là chủ đích của bài viết này.

Có nhiều cách định nghĩa thế hệ, thế hệ theo biến cố lịch sử, qua các chuyển biến xã hội, qua các lớp tuổi hay theo thứ tự dòng họ.Trong sinh học, thế hệ là thời gian từ khi người mẹ sanh con đầu lòng cho đến khi con gái của bà ta sanh con lần thứ nhất. Theo thống kê ở Mỹ năm 2007 thời gian này là 25,2 năm, ở Anh quốc năm 2004 là 27,4 năm.

Nghiên cứu về thế hệ tức là tìm các đặc tính riêng của một lớp tuổi tùy theo hoàn cảnh lịch sử văn minh, xã hội, văn hóa, kinh tế, địa dư, tuy nhiên không phải vì thế mà cá nhân trong thế hệ hoàn toàn đồng nhất. Cũng không có một giới hạn nhất định về thời điểm hay thời gian, mà thường có sự tròng tréo giữa các thế hệ.

William Strauss và Neil Hove trong quyển Generations (ISBN 0-688-11912-3, 1991) nghiên cứu về dân tộc Anglo-American trong vòng 500 năm, đã căn cứ vào các biến chuyển xã hội, cho rằng các thế hệ vận chuyển theo từng chu kỳ mà ông gọi là saeculum. Mỗi saeculum dài 90 năm gồm có bốn thế hệ, mỗi thế hệ chừng 22 năm. Các thế hệ này chuyển mình tùy theo các khúc quanh văn hóa xã hội (xin xem phụ bản ở cuối bài).

Tại Canada, cũng trong năm 1991, Douglas Coupland xuất bản quyển Generation X, Tales For An Accelerated Culture, danh từ thế hệ X, rồi Y, Z được dùng để chỉ các thế hệ đến sau thế hệ baby-boomer.

Trong thế kỷ XX, các nhà xã hội học đã phân chia và đặt tên cho các thế hệ, lần lượt như sau::

  • Generation hay Greatest Generation (1901–1924) là thế hệ đã tham dự vào thế chiến thứ hai.
  • Thế hệ im lặng (1925-1942) cũng gọi là Traditionalist, con đẻ của thời kỳ khủng hoảng kinh tế 1929.
  • Thế hệ Baby Boomber (1943-1960), thời kỳ hậu chiến khi tỷ lệ sinh sản gia tăng, có nhiều biến chuyển xã hội, thế hệ này chối bỏ các giá trị cũ, tái định nghĩa lại giá trị xã hội cổ truyền.
  • Thế hệ X (1961-1981) cũng gọi là thê hệ 13, hay là thế hệ Baby Busters, quyền lợi xã hội thiệt thòi so với baby-boomers.
  • Millennial là gì? Millennial là thế hệ Y (1982-2000) hay còn gọi Millenium, GeNext, là con của thế hệ boomers
  • Thế hệ Z (2000 – ?? ) New Silent, Gen I, Internet Gen. or Net Gen., Digital Natives, Gen Tech
  • Thế hệ alpha, A …
  • Đối với người Việt Nam ở hải ngoại, tương đương vói X là thế hệ một rưởi, trong nước tương đương với Y là thế hệ 8x và 9x.

Thế hệ Y ở Trung Hoa gọi là bát thập kỷ thế hệ hay Little Emperors, thế hệ Tàu này lạc quan về tương lai, tiêu thụ nhiều, có óc kinh doanh, muốn biến nước Tàu thành cường quốc. Vì chính sách hạn chế sinh sản mỗi gia đình chỉ được phép có một con, người Trung Hoa chỉ giữ bào thai lại khi biết sẽ có con trai, gây ra tình trạng trai thừa gái thiếu khá trầm trọng; hiện có tới 40 triệu thanh niên Tầu không lấy được vợ.

– Ở Đại Hàn thế hệ đặt tên theo các biến động chính trị, thế hệ dân chủ 1960 chống Lý Thừa Vãn, thế hệ 1964 chống hoà ước với Nhật, thế hệ 1969 chống chế độ tổng thống 3 nhiệm kỳ.

Ở Ấn độ có thế hệ độc lập 1947, thế hệ Indian boomers 1960, thế hệ Ge, thế hệ X phát triển kinh tế kỹ thuật.

Hẳn không thể nào có một mẫu người cho mỗi lớp tuổi, các thế hệ mọi nơi mọi lúc cũng không hoàn toàn đồng đều, nhưng vì truyền thông và giao dịch toàn cầu càng ngày càng mau chóng, ảnh hưởng hỗ tương các nơi trên địa cầu lan rộng, từ đó có nhiều điểm tương tự để so sánh.. Ta có thể nhìn vào thế hệ Âu Mỹ để có một nhận định khái quát về các các thế hệ trong thời kỳ vừa qua.

  • Thế hệ Traditionalists là thế hệ sanh trước khi thế chiến thứ hai kết thúc, hiện nay có vào khoảng 75 triệu người, chiếm một phần tư dân số Mỹ.

Họ chịu ảnh hưởng của thời kỳ khủng hoảng kinh tế 1929, thế chiến thứ hai 1939-1945, chế độ quân dịch và chiến tranh lạnh. Nhóm người này rất trung thành với thể chế xã hội, yêu nước, bảo thủ trong các dự tính, lịch sự, có tinh thần đạo đức, ít chú trọng vào kỹ thuật, coi trọng nghề nghiệp cao, có tinh thần trách nhiệm, chu toàn công việc trong sở. Tổng thống “Bush cha” là điển hình của thế hệ này.

  • Thế hệ Baby-boomers là thế hệsanh vào khoảng giữa 1946-1964, nhân số chừng 80 triệu người ở Mỹ.

Sanh sau thế chiến thư hai, lúc tỷ lệ sanh sản lên cao, họ trưởng thành vào lúc kinh tế bắt đầu thịnh vượng, nhưng chịu ảnh hưởng cuộc chiến Việt Nam và chiến tranh lạnh, họ chống đối chiến tranh, đòi hỏi quyền lợi riêng, chịu ảnh hưởng cuộc cách mạng tình dục, hay ghiền ma túy, thích nhạc rock and roll, cư ngụ bên ngoài thành phố, hai vợ chồng đều đi làm, đời sống gia đình thay đổi.

Nhóm này muốn tạo dấu ấn của mình trong xã hội, làm khác người, lạc quan, thiên về lý tưởng, có tinh thần phấn đấu cao, thành công ngoài đời, ly dị cao, ít chấp nhận thất bại, không yêu cầu giúp đỡ, dễ bị burn-out, thiên về vật chất, nợ nần nhiều. Bỡ ngỡ về giá trị trong xã hội, họ thường tự hỏi who am I?

Điển hình cho thế hệ này là tổng thống Bill Clinton, Nicolas Sarkozy.

. Thế hệ X, sanh khoảng 1965-1980 nhân số 46 triệu ở Mỹ.

Ảnh hưởng của chương trình truyền hình Sesame street, Music TV, máy điện toán cá nhân P.C, cha mẹ ly dị, nhiều người trong lớp tuổi này nghiền cocaine, crack.

Ít tin tưởng vào cơ chế xã hội, nhất là khi thấy các điều kiện thuận lợi đã bị thế hệ boomers chiếm giữ, họ muốn tạo cho mình một sự nghiệp.

Tính nết thường chiết trung, nhưng không ngại thay đổi nghề nghiệp và việc làm, thích nghi với mọi thay đổi, nghi ngờ các cơ chế, tỷ số ly dị cao, tiền phong trong xa lộ điện tử, có nhiều sáng kiến và nghị lực.

Về tiêu cực, họ quá trẻ trong công tác quản trị, chểnh mảng, ít đắn đo, nghĩ sao nói vậy, thích tự làm chủ lấy mình.

  • Thế hệ Y, sanh trong thời kỳ 1980-2000, vào khoảng 76 triệu ở Mỹ. Trưởng thành trong giai đoạn phát triển kỹ thuật truyền thông, giầu

nghèo cách biệt, ảnh hưởng của các sắc dân di trú. Có nhiều người nghiền ma túy, cần sa, gia nhập bọn côn đồ bạo hành.

Họ nhận định các cơ chế xã hội theo cách nhìn riêng của mình. Lớp tuổi này mệnh danh là thế hệ digital, hiếu biết cao về điện toán và tin vào internet, thông tin, máy tính 24 trên 24 giờ, chấp nhận dị biệt và mong người khác cũng chấp nhận quan điểm của mình, quan tâm về môi trường, thích nhac MTV (Music TV).

Giá trị học lực càng ngày càng cao, không quan tâm về việc làm, nhưng muốn đổi mới và tự mình làm chủ.

  • Thế hệ 7X, 8X và 9X ở Việt Nam là một khái niệm để chỉ những người sanh vào thập niên 1970, 1980 và 1990.

Những tranh luận cuả người trong ba lớp tuổi này và qua những bài bình luận về giới trẻ có thể nhìn thấy đặc tính nếp sống của họ

  • Thế hệ 7X, từ 30 đến 40 tuổi.

Một bạn trẻ trong lớp tuổi 7X đã nói về thế hệ của mình như sau. “Có người nói khoảng cách này (giữa thế hệ 7X và 8X) không đáng kể chỉ khoảng 10 năm thôi mà. Ở đây khoảng cách chúng ta không thể đo bằng con số mà chỉ có thể đo bằng suy nghĩ, cách nghĩ, cách hành động. Nhưng tại sao là 7X và 8X mà không phải 7X với 9X hay 7X với 6X. Điểm chung của hai thế hệ này là họ không chứng kiến chiến tranh, nhưng với mình là cả một khoảng cách khó có thể lấp đầy được. Đối với thế hệ 7X của tụi mình được sinh ra trong thời kỳ đất nước còn trong thời kỳ bao cấp. Mặc dù không trực tiếp ảnh hưởng bởi thời kỳ này nhưng tụi mình cũng biết được cuộc sống nó như thế nào. Mình không thể quên được cảnh ba mình 4 giờ sáng đi xếp hàng mua gạo, cả nhà không dám ăn thịt để đổi mỡ về chế biến các món ăn khác. Mình còn nhớ mãi lúc mình 8 tuổi, ba mình giao mình việc đi chợ. Nhà mình lúc đó đang nuôi gà để cải thiện nên phải mua cá vụn về nấu thêm cho gà ăn. Thế là mình chọn trong đám cá vụn đó có những con to lấy ra nấu cho nhà ăn. Sao bữa ăn lúc đó cực thế. Và để có thể sắm một chiếc xe đạp mình phải chuẩn bị gần ba năm trời bằng cách mua từng phụ tùng về để dành. Hồi đó mình tìm đủ mọi cách để có tiền như hàng sáng mình lấy đá trong tủ lạnh mang qua nhà hàng xóm bán, nhà mình có hai cây mận rất to, thế là mình hái mận mang ra ngoài ngõ ngồi bán. Chính vì chứng kiến cuộc sống thời kỳ đó mà mình rất thương bố mẹ. Và cũng chính vì lý do đó mà mình ở lại thành phố Nha Trang này. Không phải bây giờ người ta mới đổ xô vào Saigon để tìm cơ hội vươn lên. Khi ra truờng có rất nhiều cơ hội để mình phát triển nhưng chính lúc đó hình ảnh bố mẹ làm mình nghĩ lại”.

  • Thế hệ 8X là thế hệ những người từ 20 tới 30 tuổi ở Việt Nam, trưởng thành khi chiến tranh đã chấm dứt. 

Họ rất năng động, hoạt bát và là thế hệ tiếp thu văn hóa phương Tây một cách nhanh chóng, đầy triển vọng, thường nghĩ khác làm khác so với lớp tuổi trước. Và với một số người, họ cho đó là phong cách sống của họ. Họ yêu tự do không thích ràng buộc và thích khám phá. Các giá trị truyền thống bị mất đi và hầu như con người chỉ sống vì cái tôi cá nhân đó.

Một bài báo tháng 2-2010 vừa qua đã mô tả giới trẻ thế hệ 8X ở Việt Nam là một lớp tuổi có ba vật bất ly thân.

Đó là dùng thẻ thanh toán ATM. Tiện lợi là thứ nhất song hơn cả, thẻ là những giao dịch trên mạng ngày càng thông dụng. Những đợt hàng giảm giá liên tục quảng cáo ầm ĩ trên internet luôn làm những người trẻ khó ngồi yên.

Điện thoại di động: số liệu cho biết cả nước có trên 3 triệu thuê bao điện thoại di động mà trong số đó ít nhất phải có đến 50% là giới trẻ. Không phải để khoe máy như hồi điện thoại di động còn là đồ xa xỉ, điện thoại với 8X hôm nay có rất nhiều chức năng khác, nhiều nhất vẫn là nhu cầu giao lưu khi mà giới trẻ 8X luôn khao khát được độc lập, tự do không phụ thuộc vào gia đình nữa. Chỉ cần một tin nhắn trên máy đủ để kéo những 8X lại gần nhau hơn.

Ổ cứng di động USB: trong Ban Chấp hành Đoàn ai cũng có một cái USB lủng lẳng đeo ở cổ. Lúc lên văn phòng copy tài liệu nọ, ảnh kia. Rồi muốn ra hàng net để gửi đi.

Về tiêu cực, 8X ngại xung phong, ngại dẫn đầu mặc dầu có khả năng, hời hợt, thiên về thực dụng. Cách suy nghĩ ấy đã dẫn đến một thế hệ tương đối thụ động, ít phát triển, ít đóng góp ý kiến, tròn trịa, như “hộp cá sốt cà”.

. Thế hệ 9X là thế hệ từ 10 đến 20 tuổi.

Là nhóm lớn lên với sự phát triển kinh tế, thông tin điện tử mở ra thế giới bên ngoài (theo ước lượng hiện ở Việt Nam có tới 22 triệu người sử dụng internet). Họ được miêu tả là một thế hệ tiến bộ và nổi loạn, tự tin hơn thế hệ trước, theo đuổi những điều họ muốn có, dùng ngoại ngữ và đặc biệt là internet.

Họ có chiều hướng từ chối phong tục truyền thống, giá trị của lớp tuổi đi trước, thích nghe nhạc ngoại quốc, ưa phong cách sống và phong tục của nước ngoài.

Có lẽ đây là lớp tuổi bị chỉ trích nhiều, thế hệ 9X bị phê bình có một thành phần nông nổi nhất thời, lối sống buông thả, ăn chơi sành điệu, thích cà phê lùm, cà phê chòi hay cà phê giường, thích nhuộm tóc, phì phà điếu thuốc …

  • Thế hệ Z là thế hệ tương đương với thế hệ 0X (zeroX) ở Việt Nam, là bước chuyển của thiên niên kỷ, sanh sau năm 2000.

Cũng gọi là thế hệ internet, hay là tân thế hệ trầm lặng (nouvelle génération silencieuse), để so sánh với thế hệ trầm lặng đầu thế kỷ 20. Nhân số đông đảo chiếm tới 18% dân số.

Những người trẻ này không những chỉ tin vào Wikipedia, mà thích truy cập mạng, tin tưởng vào kỹ thuật, hoạt động của họ áp dụng theo internet, www, google …Kiếm việc làm không khó.

Tuổi Z không có khiếu tranh luận bằng ngôn từ hay các loại phát biểu khác, họ thiếu kiên nhẫn, muốn có kết quả ngay. Thích sử dụng điện thoại di động và cảm thấy thiếu sót nếu không có iPod, iPad.

Cá nhân chủ nghĩa, ít tinh thần gia đình, thiếu thỏa hiệp, không tin vào giá trị chung của xã hội, thế hệ Z ít nghe lời người khác, không chú ý đến kẻ khác và có lẽ vì thích sống với thế giới ảo, nên lớp tuổi Z không có khuynh hướng quá khích.

Nhiều nhà xã hội dự đoán sau năm 2020 sẽ có thay đổi lớn trong cách làm việc, quan niệm về luân lý và giá trị. Khó biết được đặc tính văn hóa của lớp tuổi này.

DÂN SỐ VIỆT NAM

Khảo sát về dân số Việt Nam, một phần lớn chúng tôi dựa vào mô hình của US Bureau of Census, một cơ sở nghiên cứu về dân số tất cả các nước trên thế giới theo phương pháp cohort component projection. 

Xin chú ý để tiện theo dõi theo thời gian, mầu sắc của mỗi khoảng cách 5 tuổi sẽ giữ nguyên trong những biểu đồ kế tiếp 10 năm sau.

* Nhìn về phía sau: dân số Việt Nam năm 1990 và 2000

Tháp tuổi dân số Việt Nam những năm 1990 và 2000 có hình mũi nhọn, lớp tuổi già không sống lâu như những năm về sau.

Phái nam từ 35, 40 tuổi trở lên (nghĩa là lớp người mà tuổi thanh niên đã trải qua cuộc chiến dài 30 năm trước1975) rất ít so với phái nữ, do hậu quả giết chóc của chiến tranh.

Tuổi sơ sinh trong năm 1990 tăng khá nhiều so với lớp tuổi lớn hơn. Điểm nổi bật khi so sánh tháp tuổi 1990 với tháp tuổi 2000 là số sanh bắt đầu giảm ở lớp trẻ nhỏ từ 0 tuổi tới 4 tuổi, con trai nhiều hơn con gái do hậu quả của tình trạng hạn chế sinh sản, mà phá thai là một yếu tố quan trọng tại Việt Nam, ước tính lên đến một triệu phá thai hàng năm (Truyền Thông số 18 Mùa Đông 2005), mặc dầu pháp lệnh dân số 2003 nghiêm cấm việc thăm dò giới tính của thai nhi..

* Hôm nay: dân số Việt Nam năm 2010

Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam kết quả cuôc tổng điều tra dân số và nhà ở tính đến ngày 1-4-2009, dân số Việt Nam là 85.789.573 người, tăng 9,5 triệu người so với 10 năm trước.

Có vài yếu tố đáng ghi trong tháp tuổi này

1- Chênh lệch giới tính đang tăng cao. Tỷ lệ nam nữ những người trên 65 tuổi là 33,5%, phái nữ nhiều hơn phái nam. Trái lại, tỷ số nam nữ khoảng 0-4 tuổi là 111% so với 106% năm 2005. Với đà tăng trưởng này, đã có dự đoán trong vòng 15 đến 20 năm nữa, ở Việt Nam sẽ thiếu 4,3 triệu thanh nữ.

Hiện nay tuổi kêt hôn của phái nam là 26,2 và phái nữ 22,8 tuổi.

2- Lực lượng lao động tức là những người từ 15 đến 59 tuổi tăng thêm nhiều so với bảng phân bố dân số những năm trước, hiện nay khoảng 43,8 triệu, trên dưới 50% dân số, đạt đến cơ cấu dân số vàng, nghĩa là hai người trong độ tuổi lao động mới phải gánh một người phụ thuộc. Tuy nhiên thời kỳ này không dài, Ủy Ban Dân Số, Gia đình dự đoán thời kỳ này sẽ chấm dứt năm 2015, trong khi bộ phận dân số của Liên Hiệp Quốc cho là thời kỳ dân số vàng ở Việt Nam sẽ kéo dài từ 2010 đến 2040.

3- Lớp tuổi phụ thuộc là những người không tham dự vào công việc sản xuất, khoảng gần 44% đối với lớp người dưới 15 tuổi và 14% đối với người trên 65 tuổi. 

Từ các con số này, tính ra chỉ số lão hóa, biểu thị bằng tỷ số người trên 60 tuổi so với người dưới 15 tuổi. Hiện nay chỉ số lão hóa ở Việt Nam là 35,9%, Singapour 85% và Thái Lan 52%.

4- Tuổi học phổ thông từ 5 đến 19 tuổi khoảng 29 triệu, chiếm 28,7%, trong số này phái nữ đi học nhiều hơn phái nam 51,09%.

* Nhìn về phía trước : dự báo dân số

Cơ cấu dân số Việt Nam sẽ thay đổi mau chóng. Thống kê dự đoán đến năm 2020 dân số sẽ là 99 triệu và năm 2030 là 104 triệu.

Lớp tuổi nhỏ giảm, tuổi lao động tăng, tuổi già trên 60 tăng, biểu đồ phân bố dân số không có hình tháp mà giống hình cái chum (cái lu)..

Sinh xuất càng ngày càng giảm, nhóm tuổi 0-4 giảm rõ rệt.

Theo Vũ Quang Việt, dự phóng dân số ở tuổi tiểu học sẽ giảm xuống 6,5 triệu vào năm 2020 và 6,3 triệu vào năm 2030.

  • cấp trung học sĩ số giảm mạnh xuống còn 10,4 triệu vào năm 2015, tức là ít hơn 2 triệu.

Dân số ở độ tuổi đại học có thể giảm đi 10% vào năm 2015, 20% vào năm 2020, và 24% vào năm 2030, nhưng nếu số sinh viên đại học không tăng thêm (năm 2006 là 20,5%), thì tỷ lệ đi học đại học vẫn tăng.

Sự giảm dân số trong lớp tuổi đi học có thể đem lại kết quả thuận tiện cho việc nâng cao nền giáo dục, tuy nhiên đầu tư cho giáo dục tại Việt Nam vẫn còn thấp, 2,1% lợi tức quốc gia, so với tỷ lệ toàn thế giới là 5,4%.

Lực lượng lao động 15-59 tuổi tăng nhanh cả về tuyệt đối lẫn tương đối, có thể lên đến 65% dân số. Tuy nhiên không phải mọi người trong tuổi lao động đều tham gia hoạt động kinh tế, và người đến tuổi nghỉ hưu vẫn còn làm việc.

Trong khi lớp tuổi phụ thuộc trẻ 0-14 giảm thì lớp tuổi phụ thuộc già trên 60 tăng. Tốc độ lão hóa nhanh hơn tốc độ tăng dân số trong tuổi lao động, đạt tới 11,24 % năm 2020.

Liên Hiệp Quốc quy định rằng một dân số có 10% người cao tuổi là một dân số già. Các vấn đề sức khoẻ, tâm lý, xã hội sẽ đặt ra một cách nghiêm trọng. Theo Nguyễn Đình Cừ, trong số người cao tuổi chỉ có khoảng 16-17% hưởng lương hưu hoặc mất sức, hơn 10% hưởng trợ cấp người có công với nước. Như vậy còn trên 70% sống bằng cách khác, tiếp tục lao động hay nhận hỗ trợ của con cháu và gia đình.

Sự thay đổi về cơ cấu dân số vừa là một thuận lợi vừa gây ra áp lực trong công tác giải quyết việc làm đối với lớp tuổi lao động, bảo đảm an sinh xã hội cho lớp tuổi học sinh và lớp tuổi phụ thuộc, trẻ em và người già, và là một thách đố đối với việc ðầu tư vào giáo dục.

Ngày mai sẽ ra sao? Đó là một câu hỏi cho những ai còn muốn nhận quê hương làViệt Nam.

Tác giả: Phạm Hữu Trác T7-2010

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Hababou, Ralph, Génération W, Fìrst, 2009
  • Coupland, Douglas, Génération A, Vintage, 2009.
  • Coupland, Douglas, Génération X, Tales For An Accelerated Culture, St Martin’s Press, 1991
  • When Generations Collide, Lynne C. Lancaster , The Management Forum Series, March 2004
  • Generation Gaps Revisited, Kenneth A. De Jong & Jayshree Sarma
  • Đối thoại với cái tôi của tuổi trẻ, Huỳnh Văn Sơn.
  • Internet 

Phụ bản

Bảng đối chiếu các thế hệ (theo Strauss và Howe và Doulas Coupland)

Late medieval Saeculum
Arthurian Generation 1433-1460 Retreat from France
Humanist Generation 1461-1482 War of Roses
Reformation Saeculum
Reformation Generation 1483-1511 Tudor Renaissance
Reprisal Generation 1512-1540 Protestant Reformation
Elizabethan Generation 1541-1565 Intolerance and Martyrdom
Parliamentarian Generation 1566-1587 Armada Crisis
New World Saeculum
Puritan Generation 1588-1617 Merrie England
Cavalier Generation 1618-1647 Puritan Awakening
Glorious Generation 1648-1673 Religious Intolerance
Enlightenment Generation 1674-1700 Glorious Revolution
Revolutionary Saeculum
Awakening Generation 1701-1723 Augustian Age of Empire
Liberty Generation 1724-1741 Great Awakening
Republican Generation 1742-1766 French and Indian War
Compromise Generation 1767-1991 American Revolution
Civil War Saeculum
Transcendental Generation 1792-1821 Era of Good Feeling
Gilded Generation 1822-1842 Transcendental Awakening
Progressive Generation 1843-1859 American Civil War
Great Power Saeculum
Missionary Generation 1860-1882
Lost Generation 1883-1900
G.I. Generation 1901-1924
Silent Generation 1925-1942 Traditionalists (Pre-1946)
Millennial Saeculum
Baby Boom Generation 1943-1960 Baby Boomers (1946-1964)
13th Generation 1961-1981 Generation X (1965-1981), 1 rưỡi.
Millenial Generation 1982-2003? Millennial, Y, GeNext (1982-2000)
Thê hệ 8x và 9x tại Việt Nam
New Silent Generation 2004- ? Generation Z,
Thế hệ A, alpha, zéro
Ở Việt Nam hiện nay:
  • Thế hệ 8x từ 20 tới 30 tuổi ở VN hiện nay có khoảng 9 triệu nam và 9 triệu nữ
  • Thế hệ 9x từ 10 tới 20 tuổi ở VN ít hơn, khoảng 8,5 triệu nam và 8 triệu nữ . (Xin coi tháp tuổi Việt Nam)

Feminist là sự đấu tranh giành lại nhân quyền cho giới phụ nữ. Trong tiếng Việt dịch Feminism là chủ nghĩa nữ quyền hay còn gọi là quyền phụ nữ.

Trước khi đến với khái niệm Feminist là gì thì chúng ta cùng xem câu chuyện này nhé.

Miss X sinh ra và lớn lên trong một gia đình nề nếp, tại một làng nhỏ miền Bắc nước Anh. Tuy gia đình khá giả, cô và các chị em gái chưa bao giờ được cắp sách đến trường như các anh trai cô, họ chỉ được bố và các anh dậy đọc, dậy viết ở nhà. Từ thuở còn nhỏ, mẹ dạy cô nấu nướng, cắm hoa, giặt giũ, thêu thùa những thứ mà ba cho rằng một người phụ nữ đảm đang cần phải biết. Mặc dù Miss X rất thích đọc sách và có óc tìm tòi, nhưng bố mẹ cô bảo rằng con gái đọc sách nhiều cũng vô ích. Năm cô tròn 18 tuổi, ông bà gả cô cho một gia đình thương gia trong làng. Đời sống vợ chồng không có thơ mộng như cô tưởng. Từ ngày lập gia đình, với trách nhiệm của một người vợ, người con dâu và người mẹ, cô càng bận rộn hơn trước. Ngày nào cũng như ngày nào, cô phải lo mọi việc nội trợ từ sáng sớm đến tối khuya. Nào là đi chợ, nấu ăn, quét dọn, may quần áo cho chồng con, hầu hạ bố mẹ chồng. Tuy biết mình thích vẽ, viết văn, và có năng khiếu làm sổ sách nhưng phu quân của cô không muốn cô mất thời giờ làm những việc vớ vẩn đó. Theo ông, một người đàn bà gương mẫu phải dành hết thời giờ lo cho chồng, gia đình chồng và các con. Nhiều khi, cô cảm thấy bực mình, chán nản trong sự gò bó của gia đình nên gây gổ với chồng và bị ông ta đánh. Một lần, khi cô tức giận bỏ đi, người chồng đă nói thẳng vào mặt cô : Uổng công tôi nuôi cô từ trước đến giờ. Cứ đi, để xem không có tôi thì cô có sống nổi không.

Đây là một câu chuyện đặc trưng nói lên đời sống bị gò bó, áp bức, bóc lột của người phụ nữ ngày xưa. Tuy ngày xưa nhưng thật ra cũng không phải lâu lắm. Hầu như ai cũng biết rằng phong trào giải phóng phụ nữ (feminism) đã đem lại quyền lợi và tự do cho thế hệ phụ nữ ngày nay. Nhưng ít ai biết feminism bắt nguồn từ lúc nào và từ đâu. Những quyền phụ nữ chúng ta có được ngày hôm nay, từ học thức, việc làm, địa vị trong gia đìnhh, xã hội, cho đến quyền tham gia chính trị là nhờ biết bao người nữ anh hùng trong lịch sử đã đứng lên tranh đấu, chịu nhục nhã và hi sinh.

Vậy  feminism hay còn gọi là nữ quyền nghĩa là gì?

Nhiều người định nghĩa về khái niệm feminism từ nhiều khía cạnh khác nhau. Có người nghĩ rằng feminism đấu tranh giúp người đàn bà có thể đi làm ngoài xă hội, có người lại cho rằng feminism chứng minh đàn bà giỏi hơn đàn ông, và đàn bà cần trả thù những ǵ mà đàn ông đă hành hạ đàn bà từ trước đến giờ. Thật ra, feminism là sự đấu tranh giành lại nhân quyền cho giới phụ nữ (Women demanding their full rights as human beings !).

Jean-Jacques Rousseau, một nhà triết học nổi tiếng của Pháp, đă viết về thân phận người phụ nữ như sau : “Men and women are made for each other, but their mutual dependence is not equal. We could survive without them better than they could without us. They are dependent on our feelings, on the price we put on their merits, on the value we set on their attractions and on their virtues. Thus women’s entire education should be planned in relation to men. To please men, to be useful to them, to win their love and respect, to raise them as children, to care for them as adults, counsel and console them, make their life sweet and pleasant”.

Trong lịch sử nhân loại có rất nhiều  phụ nữ thành công. Họ thường là công chúa, hoàng hậu, nghệ sĩ, nhà thơ v.v…Ví dụ, nữ hoàng Elizabeth (1533-1603) cai trị lẫy lừng một thời và là một trong những người tạo dựng cách mạng Anh Quốc (English Renaissance), Sappho (650 BC) là một nhà thơ nổi tiếng của thế giới Hi lạp, nữ Đế Vương Catherine the Great (1729-96) cai trị nước Nga hơn 35 năm và mang lại nhiều sự cải cách cho đất nước, Joan of Arc (1412-31) từ tuổi thiếu niên đă là một nữ anh hùng Pháp xông pha ngoài chiến trường. Tuy những phu nhân và nữ anh hùng này là những nhân vật ưu tú trong lịch sử, đáng tiếc thay họ đă không làm được ǵ cho phụ nữ của dân tộc họ. Những người đứng lên đấu tranh cho quyền lợi phụ nữ chính là những người đàn bà bị áp bức, g̣ bó trong khuôn khổ. Giới phụ nữ đă can đảm liên kết nhau để cùng đứng dậy nói lên sự bất công mà họ, mẹ họ, bà của họ đă chịu đựng từ hàng ngàn năm qua. Họ kết án những điều lệ, những khuôn khổ gia đ́nh, những khuôn khổ xă hội đă đàn áp họ, bắt họ sống trong sự phục tùng và vâng lệnh. Họ bất b́nh về cách phân chia công việc trong xă hội : đàn ông ngoài việc được mệnh danh là « trụ cột gia đ́nh » c̣n có thể tham gia thể thao, chính trị, c̣n đàn bà th́ lúc nào cũng phải ở nhà gánh vác việc nội trợ và phụ thuộc kinh tế vào chồng. Họ mơ ước đem lại cho phụ nữ khắp nơi một cuộc sống b́nh đẳng, thoải mái và tự do hơn. Tuy nhiên, phong trào giải phóng phụ nữ gặp rất nhiều khó khăn, nhất là lúc khởi đầu, và cuộc cách mạng này đă trải dài không những nhiều chục năm hay nhiều trăm này mà qua nhiều thế kỷ măi cho đến ngày hôm nay vẫn c̣n tiếp tục.

Cuộc chiến nữ quyền và khởi nguồn của Feminism

Feminism bắt nguồn vào giữa thế kỷ 18, khi chế độ phong kiến ở châu Âu đang trong nguy cơ lung lay. Trong chế độ này, vua chúa, bà tướng, những người quư tộc lúc nào cũng sống trong sự giàu sang, đầy quyền lực và hà hiếp bá tánh. Khi họ qua đời th́ con cháu của họ lại nối ngôi và thừa hưởng gia tài, quyền lực. V́ thế, trong xă hội thời đó, người nào giầu và đầy quyền thế th́ cứ giàu măi từ đời này sang đời khác, c̣n người nào nghèo th́ khó mà thoát ra khỏi cảnh cơ hàn. Một số người thuộc tầng lớp trung cấp (middle-class) nhận ra sự bất công xă hội đó, họ họp lại thành một nhóm càng ngày càng mạnh và đứng lên đấu tranh chống lại chế độ phong kiến. Trong lúc nhóm người này đấu tranh lật đổ chế độ quan liêu của vua chúa, tại nhiều nước châu Âu một số người đàn bà bắt đầu đứng dậy nói lên sự bất b́nh đẳng giữa phái nam và phái nữ. Họ lên tiếng rằng vua chúa bóc lột dân chúng thế nào, th́ phái nam cũng bóc lột phái nữ thế nấy. V́ thế, nếu con người nghĩ rằng đấu tranh cho một tầng lớp xă hội b́nh đẳng hơn là điều cần thiết, th́ việc đấu tranh cho đời sống của phái nữ bình đẳng hơn cũng là điều cần đến lúc phải làm.

Một trong những nữ anh hùng đó là cô Mary Wollstonecraft (1759-97). Cô sinh ra và lớn lên trong một gia đ́nh nông dân tại Anh quốc. Trong gia đ́nh cô, người cha là người chủ động trong mọi việc. Không những thế, ông c̣n là một người độc tài, thích uống rượu và thường đánh vợ con. Người mẹ th́ rất hiền, và Mary cảm thấy căm phẫn khi thấy bà luôn khúm núm, sống dưới mọi quyền hành của chồng. Không những thế, mỗi lần mẹ của Mary sanh một em bé gái th́ bố cô lại cằn nhằn : Oh ! not another daughter, và trong cuộc sống hàng ngày ông luôn tỏ vẻ yêu mến những người con trai nhiều hơn. Bối cảnh gia đ́nh đă thúc đẩy Mary trở thành một người đàn bà tự lập, hoạt bác. Cô không muốn sống cuộc đời mà mẹ cô đă cắn răng sống Cô quyết rời khỏi gia đ́nh, cố gắng tự đi làm ngày đêm để đóng tiền đi học. Năm 1783, Mary đă vận động tiền để mở một trư lại dành cho học sinh nữ tại một ngoại ô của Luân Đôn. Chính Mary, chị em của cô, các bạn gái của cô là giáo viên của trường. Họ vừa dạy và vừa tự học thêm. Mặc dù gặp rất nhiều trắc trở và sự châm biếm từ phái nam (vd : đám đàn bà hư hỏng, đám phù thủy), Mary không bỏ cuộc. Theo cô, đàn bà không được đi học, không được đi làm ngoài xă hội, không được tham gia vào chính trị, là đang sống trong chế độ độc tài của nam giới, chẳng khác nào chế độ độc tài của vua chúa. Khuôn khổ xă hội bắt buộc người vợ phục vụ chồng và dựa vào tiền của chồng để sống th́ chẳng khác ǵ bắt họ trở thành gái điếm ( legal prostitution ). Cô cho rằng bước đầu tiên giúp nữ giới bước ra thế giới bên ngoài chính là sự học vấn. Chỉ có học vấn và kiến thức mới có thể giải vây họ ra khỏi cái ṿng luẩn quẩn mà phụ nữ các thế hệ trước không thể nào bước chân ra khỏi.

Trong lúc cách mạng nước Pháp bùng nổ, lật đổ chế độ phong kiến, Mary đă viết một cuốn sách dày 300 trang mang tựa đề: A vindication of the Rights of Women. Ngay lập tức, tác phẩm của cô trở thành sách bán chạy nhất, và cuốn sách này là nền tảng cho phong trào giải phóng phụ nữ suốt thế kỷ 19 và ề: “A vindication of the Rights of

Ngày hôm nay, phụ nữ được giáo dục, được tham gia vào các hoạt động xă hội, tham gia vào chính trị ngang hàng với phái nam. Trong các trường đại học, các ngành mà lúc trước chỉ có phái nam độc quyền như luật, y, kỹ sư bây giờ càng ngày càng nhiều phái nữ tranh vào. Từ ngàn xưa người ta quan niệm rằng con gái kém thông minh hơn con trai, rằng con gái chỉ đủ khả năng làm việc nội trợ. Cuộc sống tân tiến đă và đang chứng minh rằng những quan niệm ấy không c̣n đúng nữa. Con trai và con gái đều sinh ra thông minh, thoát vác, tài ba giống nhau, nhưng chính môi trường xă hội ngày xưa đă đặt phụ nữ vào một địa vị thấp hơn, chứ không phải do phụ nữ sinh ra kém thông minh hơn.
Ngày nay, người ta lại thắc mắc không biết cuộc chiến nữ quyền đă kết thúc chưa hay vẫn c̣n tiếp tục? Hiện giờ, Anh Quốc là một trong những nước tân tiến nhất thế giới mà thu nhập toàn quốc của phụ nữ vẫn chỉ bằng 2/3 thu nhập của phái nam. Ở đó, vẫn c̣n nhiều phụ nữ làm những nghề cổ điển như giặt giũ, nấu ăn, may mặc, quét dọn. Và cũng tại Anh, chỉ có 3% giám đốc các công ty, 4% chánh án, và 7% thành viên của Thượng Nghị Viện là đàn bà. Các nhà xă hội học cho rằng feminism chỉ chấm dứt ngày mà nam nữ bình đẳng 50/50 trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống. Tại các nước Tây Phương, tôi nghĩ rằng ngày đó sẽ đến, chỉ là nhanh hay chậm mà thôi (không 50/50 th́ 49/50 cũng OK, phải không các bạn?). Tôi chỉ tội nghiệp thay những người phụ nữ ở các nước c̣n bảo thủ như Ấn Độ, Arab, Trung Đông, đến thiên niên kỷ 3 này mà đa số vẫn c̣n bị giam cầm trong bốn bức tường gia đ́nh. Không biết đến khi nào họ mới đạt được những ǵ mà phụ nữ ở các quốc gia Tây Phương đang có. Có lẽ họ cũng đang chờ một Mary Wollstonecraft của dâ những nghề ?cổ điển? như

Lẫn phái nam và phái nữ nên vui mừng vì chúng ta đă đi được một con đường khá xa từ ngày quyển sách của bà Mary Wollstonecraft ra đời. Và chắc chắn chúng ta vẫn c̣n một chặng đường nữa phải đi!.

Bạn có biết gì về gián Dubia? Đây là một loại gián đất có giá trị kinh tế cao đang được nhiều người nuôi để làm kinh tế. Hãy tham khảo ngay bài viết Gián Dubia trên Truyền Thông để biết thêm về loài gián giá trị nà nhé.


Warning: compact(): Undefined variable $pagination in /home/truyen-thongorg-13259/public_html/prod/wp-content/themes/cheerup/loop.php on line 27

Warning: compact(): Undefined variable $pagination_type in /home/truyen-thongorg-13259/public_html/prod/wp-content/themes/cheerup/loop.php on line 27